Phụ gia chiết xuất thực vật luôn nằm trong nhóm protein tiềm năng thay thế bột cá, một trong những chìa khóa thúc đẩy ngành nuôi trồng thủy sản tăng trưởng bền vững.
Quản lý protein thức ăn thủy sản
Thông thường, nông dân chỉ đánh giá thức ăn thủy sản dựa trên hàm lượng protein thô. Tuy nhiên, phân tích protein thô hầu hết là gián tiếp (phương pháp Kjeldahl); trong khi đó hàm lượng nitơ trong mẫu thức ăn thủy sản thường từ nhiều nguồn khác nhau, ngoài protein, như phospholipids, chitin, amin sinh học, urê formaldehyde và các hợp chất chứa nitơ khác.
Thức ăn bổ sung Economix thúc đẩy tăng trọng trung bình và cải thiện FCR trên TTCT. Ảnh: iStock
Thứ hai, protein được tạo thành từ các axit amin trong khi số lượng axit amin lên tới 20 loại. Giá trị protein thô trong thức ăn cao nhưng không đảm bảo cân bằng axit amin thiết yếu sẽ dẫn đến tăng trưởng dưới mức tối ưu và tỷ lệ chuyển đổi thức ăn (FCR) tăng cao. Ngoài ra, lượng nitơ dư thừa ảnh hưởng xấu đến chất lượng nước.
Cuối cùng, protein thô không phản ánh hiệu quả dinh dưỡng đối với chức năng trao đổi chất và tăng trưởng. Xác định chính xác chất lượng dinh dưỡng ở vật nuôi rất phức tạp, nhưng đánh giá khả năng tiêu hóa lại có ý nghĩa. Trong nuôi thủy sản, tỷ lệ tiêu hóa thường được tính toán dựa vào thành phần protein, axit amin chọn lọc, năng lượng và phốt pho. Phốt pho gốc động vật dễ tiêu hóa, không giống phốt pho gốc thực vật, chủ yếu tồn tại dưới dạng axit phytic và khó tiêu hóa. Ngoài ra, khả năng tiêu hóa protein bột cá có thể bị cản trở do hàm lượng tro quá cao.
Phương pháp xử lý cũng có tác động đáng kể. Đậu nành chứa nhiều chất kháng dinh dưỡng như trypsin ảnh hưởng đến hoạt động enzyme phân giải protein. Dùng nhiệt làm chín đậu nành có thể loại bỏ được yếu tố này. Nhưng quá nhiệt sẽ gây phản ứng Maillard, khiến lysine đậu nành liên kết với các polysaccharide, làm thức ăn khó hấp thụ và hiệu suất chăn nuôi giảm.
Phụ gia làm giảm bột cá và protein
TECHNA, một hãng dinh dưỡng của Pháp đã phát triển sản phẩm Economix nhằm giảm bột cá và protein trong thức ăn thủy sản. TECHNA đánh giá các thông số chính gồm khả năng tiêu hóa protein, hiệu quả sử dụng protein (PER); FCR, khả năng lưu giữ protein, hiệu quả sử dụng thức ăn và lượng ăn vào.
Tính ngon miệng và tiêu thụ thức ăn cũng được xem xét trong quá trình lựa chọn nguyên liệu. Vì mục đích là giảm chi phí thức ăn thủy sản, nên chi phí của nguyên liệu được đánh giá cẩn thận, từ đó tìm ra thành phần tối ưu cho chất phụ gia này. Hiệu quả của Economix về tăng cường khả năng tiêu hóa đã được chứng minh trong thử nghiệm năm 2020 tại SPAROS, Bồ Đào Nha trên cá chẽm châu Âu (Dicentrarchus labrax). Hai thử nghiệm gần đây trên TTCT được thực hiện ở Indonesia và Ấn Độ. Mục đích của thử nghiệm không phải cải thiện hiệu suất nuôi mà để giảm chi phí thức ăn đồng thời duy trì năng suất tương tự.
Kết hợp với khô dầu cọ:
Thử nghiệm do Tiến sĩ RomiNovriadi và cộng sự tại Đại học Kỹ thuật Thủy sản Jakarta, Đại học Bách khoa AUP Indonesia năm 2022, tập trung vào khô dầu cọ (PKM) do nguồn cung dồi dào và giá cạnh tranh.
Thử nghiệm gồm nghiệm thức chứa khô dầu cọ tăng dần (2,5%; 6% và 9%) và ngiệm thức đối chứng. Ngoài ra, ba khẩu phần nữa được xây dựng bằng cách sử dụng cùng mức PKM nhưng kết hợp 2 kg/tấn Economix. Mức giảm protein dự kiến từ 36% xuống 35%, cụ thể 35,75% (khẩu phần đối chứng) và 34,08% (khẩu phần 9% PKM + Economix). Hàm lượng bột cá giảm từ 10% xuống 8% trong khi bột gia cầm, khô đậu và tinh bột ngô lần lượt giảm 12% xuống 11%; 39,9% xuống 38,3% và 14,1% xuống 9,8%.
Bổ sung Economix vào thức ăn theo tỷ lệ 2,5% PKM + Economix; 6% PKM + Economix; 9% PKM + Economix giúp làm giảm chi phí 3,87% so với khẩu phần đối chứng. Trong thử nghiệm thả nuôi TTCT có trọng lượng 0,7 g vào bể 3 m² với mật độ 50 PL/m² và lặp lại nghiệm thức 5 lần trong thời gian 87 ngày. Kết quả phân tích ANOVA 1 chiều cho thấy sự khác biệt về FCR với giá trị P<0,01. Tuy nhiên, khi tiến hành phân tích ANOVA 2 chiều trên 6 khẩu phần chứa khô cải, kết quả cho thấy Economix có tác dụng cải thiện tăng trọng rõ rệt cùng hoạt tính lysozyme tăng cường.
Thức ăn bổ sung Economix thúc đẩy tăng trọng trung bình và cải thiện FCR. Kết quả này chứng minh Economix nâng cao hiệu quả nuôi tôm. Khi kết hợp với khô cải, phụ gia này còn giúp giảm sử dụng bột cá và protein thô, từ đó giảm chi phí thức ăn tổng thể.
Kết hợp với DDGS:
Thử nghiệm thứ hai được tiến hành tại Viện Nuôi trồng thủy sản nước lợ (CIBA) ở Ấn Độ dưới sự hướng dẫn của Tiến sĩ Ambasankar và cộng sự. Nhóm chuyên gia này đã so sánh hiệu quả của 4 nghiệm thức và khẩu phần đối chứng đối với tăng trưởng của tôm. Hai nghiệm thức đầu tiên gồm nghiệm thức Economix và đối chứng âm có nguyên liệu thô tương tự nghiệm thức đối chứng, nhưng tỷ lệ bột cá giảm 3,56% (từ 15,56% xuống 12%); và gluten ngô giảm từ 4 xuống 3,5%; đồng thời bù lại bằng cách bổ sung khô đậu, bánh dầu lạc và bánh mè. Nghiệm thức Economix bổ sung thêm phụ gia này theo tỷ lệ 2 kg/tấn. Những điều chỉnh này dẫn đến hàm lượng protein thấp hơn (từ 36% xuống 35% về lý thuyết và 36,5%; 35,7%, và 35,18% dựa trên kết quả phân tích).
Công thức cải tiến thứ hai bổ sung DDGS 45% protein theo tỷ lệ 3%, cụ thể gồm đối chứng âm + DDGS và Economix + DDGS theo tỷ lệ 2 kg Economix/tấn. Giá trị protein tiếp tục giảm ở các công thức này xuống 34,5% về lý thuyết và 35,69% và 35,7% theo kết quả phân tích. Kết quả cho thấy lượng protein và axit amin thấp hơn trong công thức thức ăn thử nghiệm; cùng đó chi phí công thức của khẩu phần Economix cùng giảm lần lượt 1,62% và 2,49% so với khẩu phần đối chứng.
Ngoài ra, bổ sung Economix đã cải thiện đáng kể FCR (P<0,01). Dữ liệu tổng thể cho thấy mức tăng trưởng của tôm ở cả hai chế độ đối chứng âm đều giảm lần lượt 0,2 và 0,23 g. Ngược lại, nhóm tôm ở chế độ Economix đạt tăng trưởng cao hơn (+0,1 g). Những thử nghiệm trên đã chứng minh Economix giúp tiết kiệm chi phí thức ăn và không ảnh hưởng tiêu cực đến hiệu suất nuôi tôm; đồng thời cải thiện FCR, tăng cường khả năng tiêu hóa protein, từ đó nâng cao hiệu quả sử dụng thức ăn.
Dũng Nguyên (Theo Aquafeed)
Nguồn: Thuysanvietnam.com.vn